Ở trung tâm là người nữ

Ngày 14 tháng 2 một lần nữa lại là ngày của trái tim, của hoa và những tấm thiệp chúc mừng ngọt ngào. Tuy nhiên, có một số kỷ niệm khác trùng với ngày lễ này.

Có hai sự kiện khác cũng được kỷ niệm vào ngày 14 tháng 2 tuy không được nhiều người biết đến nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với Opus Dei: kỷ niệm thành lập Nhánh Nữ vào năm 1930 và thành lập Hội Linh mục Thánh Giá vào năm 1943.

Bài viết này không nhằm mục đích mô tả Opus Dei (điều mà tôi không cho là mình có khả năng làm được). Điều tôi muốn chia sẻ ở đây là việc thành lập Nhánh Nữ của Opus Dei vào ngày 14 tháng 2 năm 1930 - một ngày đã có rất lâu trước khi cụm từ "giải phóng phụ nữ" được phát minh (cụm từ này lần đầu tiên được sử dụng ở Mỹ vào năm 1964). Theo tôi biết, lúc đầu, Đấng Sáng lập Opus Dei, Thánh Josemaría Escrivá, đã hình dung Opus Dei như một phong trào chỉ dành cho nam giới sống giữa thế gian, giúp họ cách đáp lại lời kêu gọi nên thánh trong lĩnh vực nghề nghiệp. Tuy nhiên, vào năm 1930, Thánh Josemaría được linh hứng rằng tính phổ quát của Opus Dei phải được phản ánh không chỉ bằng cách đón nhận tất cả mọi người thuộc mọi ngành nghề, nhưng còn bằng việc đưa phụ nữ vào việc tông đồ của tổ chức, mặc dù được thực hiện riêng biệt, để đáp ứng các nhu cầu mục vụ khác nhau của người nữ.

Tháng tới, tháng Ba, có lúc vẫn được gọi là Tháng Phụ nữ. Tôi muốn tranh thủ trước những người sẽ viết về các đề tài liên quan đến phụ nữ và chủ nghĩa nữ quyền như nó thường được áp đặt lên phụ nữ ngày nay, để viết về ý nghĩa của việc là phụ nữ đối với tôi và việc phụ nữ được nâng cao như thế nào qua giáo huấn của Thánh Josemaría Escrivá và Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu.

Điều tôi thấy thú vị là cách cả hai Đấng hiểu về phụ nữ và cách các Ngài nói rằng phụ nữ không phải là một "người đàn ông thấp kém hơn" như các nhà nữ quyền ám chỉ khi họ muốn bắt chước nam giới và chỉ cảm thấy bản thân được "thành toàn" khi trở thành "bản sao" của phái tính kia, hoặc như họ thường nói, của giới tính kia. Tôi tìm thấy câu trích dẫn này trong một bài báo: "Các nhà nữ quyền cáo buộc Do Thái giáo và Kitô giáo là những tôn giáo phân biệt giới tính khi trình bày một Thiên Chúa là nam giới và truyền thống nam giới lãnh đạo đã hợp pháp hóa ưu thế vượt trội của nam giới trong gia đình và xã hội." Tôi nghĩ đây là toàn bộ mục tiêu của "phân biệt giới tính" mà một số người cho rằng cần phải bãi bỏ để cho phép phụ nữ được là "chính mình".

Cho phép tôi chia sẻ điều tôi đồng ý về vai trò của phụ nữ. Nó “được xác định bởi hai yếu tố: bản sắc và sự tự quyết của họ. Người nữ, cũng giống như người nam, phải có khả năng lựa chọn tương lai cho mình, thực hiện dự án cuộc đời mình. Để làm được điều này, người nữ phải có những cơ hội giống như người nam. Và cô ấy sẽ làm điều này vì bản sắc của mình, để là chính mình mà không rơi vào cái bẫy của sự bắt chước, không bắt chước thói quen và cách thức của phái nam mà cho rằng bằng cách đó cô ấy sẽ tìm thấy chính mình.” (Patricia Mayorga, trong El Mercurio, Santiago, 1996)

Theo một nghĩa nào đó, những ý tưởng của Thánh Josemaría Escrivá đã đi trước thời đại nhiều thập kỷ. Với tầm nhìn xa ấy, Ngài đã mở các Trung tâm Opus Dei do phụ nữ điều hành, vì vào thời điểm đó hầu như không ai tin rằng phụ nữ có thể tồn tại độc lập mà không cần sự giúp đỡ của nam giới, ít nhất là trong các lĩnh vực liên quan đến kinh tế và điều hành. Chính tầm nhìn xa ấy đã khuyến khích các chị em phát triển ngay từ đầu các hoạt động tông đồ trong nhiều lĩnh vực và ngành nghề đa dạng. Cha Thánh nói với các chị em: "Các con có mọi điều kiện để độc lập: trong phạm vi ảnh hưởng của các con, cha luôn quan điểm rằng các con nên tự chủ trong các hoạt động kinh tế và đoàn thể của mình." Rõ ràng đây là ý tưởng mang tính cách mạng vào thời điểm đó và thậm chí cả hôm nay.

Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thân yêu cũng bảo vệ quyền phụ nữ, ca ngợi phẩm chất độc đáo của phụ nữ là người giúp đỡ và đối tác của người nam, chứ không phải là người thua kém người nam. Đức Thánh Cha rao giảng một chủ nghĩa nữ quyền mới định nghĩa lại ơn gọi và sứ mệnh của phụ nữ, và gọi đó là “thiên tài của người nữ”. Ngài cho thấy rằng phụ nữ có một ý thức đặc biệt đối với những con người cụ thể, rằng phụ nữ nhìn con người bằng trái tim, nhìn con người một cách độc lập, không lệ thuộc vào các hệ thống chính trị hoặc ý thức hệ. Đáng buồn thay, thế giới của chúng ta ngày nay bị thống trị bởi chủ nghĩa khoái lạc và văn hóa tiêu thụ đến độ nó có nguy cơ bị phi nhân hóa. Đức Thánh Cha cảm thấy cần có “thiên tài của người nữ” để cứu và bảo vệ thế giới khỏi mối đe dọa này


Rất nhiều lời hoa mỹ đã được nói về mối quan tâm “giải phóng” phụ nữ khỏi cái gọi là xiềng xích chính trị-xã hội và văn hóa-xã hội do nam giới thống trị, trong khi trên thực tế điều cần làm là sử dụng “thiên tài của người nữ” trong mọi lĩnh vực của xã hội – nơi người nữ có thể điều hành trường học, hoạt động trong doanh nghiệp, làm việc trên đồng ruộng, làm chính trị gia, nhà báo, nghệ sĩ hoặc làm việc tại nhà. Ở trung tâm sự tiến bộ của các cộng đồng, xã hội và quốc gia là vai trò then chốt của người nữ – như là chính họ, chứ không phải là sự bắt chước vụng về người nam.

Lễ kỷ niệm thành lập Nhánh Nữ Opus Dei hơn 80 năm trước là một lời nhắc nhở rằng Giáo Hội luôn thấy nữ giới bình đẳng với nam giới. Mỗi người nữ, trong môi trường sống của mình, nếu trung thành với ơn gọi thiêng liêng và nhân loại của mình, sẽ có thể đạt đến sự viên mãn của nhân cách nữ tính, và quả thật các chị em sẽ “nâng đỡ nửa bầu trời” như người xưa vẫn nói.

Mercedes B. Suleik // Thế giới Kinh doanh (Business World)